Từ nửa sau thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước Việt Nam, đặt ách thống trị và áp bức bóc lột dân tộc Việt Nam.
Để bảo vệ chủ quyền dân tộc, toàn thể dân tộc Việt Nam không ngừng nổi
lên chống thực dân Pháp bằng các cuộc khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi
nghĩa, làm nên Cách mạng Tháng tám thành công. Nhìn lại một chặng đường
lịch sử chiến đấu và chiến thắng kẻ thù của dân tộc ta từ hơn một thế
kỷ qua, chúng ta ghi nhận rất nhiều tấm gương chiến sỹ kiên trung đã
giành cả cuộc đời cho tổ quốc.
Tăng Bạt Hổ là một trong những tấm gương
đó. Trong quá trình hoạt động cách mạng cứu nước của mình, Tăng Bạt Hổ
đã cùng các đồng chí của mình sáng lập ra Duy Tân Hội với tôn chỉ: “đánh
đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước quân chủ lập hiến,
và vạch ra kế hoạch tiến hành, trong đó có vấn đề “cầu ngoại viện”. Đầu
năm 1905, Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu cùng các đồng chí của mình vượt
biển sang Nhật Bản “cầu viện”.
Việc không thành, các đồng chí trong Duy Tân Hội lập tức chuyển thành
“cầu học” và kịp thời phát động một phong trào tuyển chọn thanh niên yêu
nước qua Nhật Bản học tập, đào tạo nhân tài để chuẩn bị cho cuộc đấu
tranh giành độc lập và xây dựng đất nước “Việt Nam mới” văn minh tiến
bộ. Phong trào này gọi là phong trào Đông Du. Những hoạt động trong
những năm đầu thế kỷ 20 của các chiến sỹ trong phong trào Đông Du nói
chung và Tăng Bạt Hổ nói riêng rất sôi động nên liên tục bị thực dân
Pháp tìm cách ngăn chặn, và phong trào Đông Du bị thất bại có nguyên
nhân chính từ đó. Tuy không thành nhưng phong trào Đông Du mà trong đó
Tăng Bạt Hổ được xem là một nhân vật hướng đạo luôn được dân tộc Việt
Nam tôn vinh là tấm gương của truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc
nối liền giai đoạn cần vương chống Pháp thất bại đến với giai đoạn chống
Pháp thắng lợi.
TĂNG BẠT HỔ- MỘT KHÍ PHÁCH CỦA CON HỔ RỪNG GIÀ
Bước
vào thời kỳ cận đại, một lần nữa nền độc lập và chủ quyền của nước ta
được đánh đổi bằng xương máu của biết bao nhiêu thế hệ lại được đem ra
thử thách. Từ tiếng súng đầu tiên thực dân Pháp nổ ở Đà Nẵng năm 1858
cho đến nửa đầu thế kỷ XX, gần một trăm năm với rất nhiều hi sinh mất
mát, với những đấu tranh không ngừng để sửa chữa và khắc phục sai lầm,
chúng ta đã giành được độc lập, trước một đối thủ có tiềm lực mạnh hơn
gấp nhiều lần. Có thể nói, chưa có thời điểm nào, bộ mặt chính trị nước
ta lại sôi động và phức tạp đến như thế. Sự thay thế lẫn nhau của các
khuynh hướng dưới tác động của nhiều luồng tư tưởng trong và ngoài nước
đã tạo nên một diện mạo mới cho cách mạng Việt Nam. Trong số những con
đường giải phóng dân tộc ấy, có một con đường thoạt nhìn thì có vẻ hơi
khác so với truyền thống đánh giặc giữ nước được bồi đắp suốt chiều dài
lịch sử, song về cơ bản, vẫn là một bộ phận của dòng chảy tư tưởng cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đó là con đường canh tân đất nước, đổi mới tư
duy mà đại diện tiêu biểu là dòng canh tân của các sĩ phu yêu nước, một
trong những đại biểu xuất sắc là Tăng Bạt Hổ. Tăng Bạt Hổ, tên của ông
gắn liền với một giai thoại lý thú, nói lên bản lĩnh của ông lúc chưa
đầy 30 tuổi: Tháng Giêng năm Đinh Hợi - 1897, sau ngày chiến đấu chống
bọn thực dân Pháp và bọn tay sai phản động không thành, ông tìm đường
sang Thái Lan cầu viện, cứu nước. Khi đi đến đèo Dốc Đót, giáp giới cao
nguyên An Khê - Bình Định, ông gặp một con cọp chặn giữa đường, mấy
người theo ông ai cũng lo, có người run như cầy sấy. Tăng không chút sợ
hãi, nhìn thẳng vào con cọp. Cọp phải tránh sang một bên cho ông và các
người cùng đi qua đèo. Từ đó, các người cùng đi tôn ông là Tăng Bạt Hổ.
Câu chuyện "bạt hổ" của Tăng được truyền tụng trong dân gian, nơi làng
quê Bình Định, vốn giàu truyền thống yêu nước, bất khuất. Con đường cứu
nước của ông, với hành trang ngót 30 năm trên chiều dài đất nước, từ
miền Trung Trung Bộ ra Hà Nội, lên Sơn Tây, Cao Bằng và đến tận Thái
Lan, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản xa xôi, để lại biết bao kỷ niệm và nghĩa
tình sâu lắng trong nhân dân trên mọi miền đất nước và bầu bạn xa gần từ
cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đến nay.
Tăng
Bặt Hổ tên thật là Tăng Doãn Văn, hiệu Điền Bát, bí danh Lê Thiệu Dần,
sanh năm Mậu Ngọ (1858), tại làng An Thường, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình
Định.
Thông minh, hiếu học, tuổi mới 14, 15 mà đã nổi tiếng là bụng chứa đầy
sách. Nhưng lại ghét lối văn cử tử mà người đương thời đua nhau rèn
luyện để chờ khoa xuân, khoa thu, cho nên ông dùng thì giờ rèn văn để
luyện võ. Ông có sức mạnh phi thường. Lúc mới 11, 12 tuổi mà đã vác nổi
một khúc gỗ mà phải hai người khiêng, và lớn lên đã nhảy khỏi hàng rào
cao lút đầu với hai thùng thiếc đầy nước nơi hai tay. Ông giỏi quyền
thuật, lại sở trường về kiếm. Chí
sĩ Tăng Bạt Hổ là một nhân vật tiêu biểu trong phong trào yêu nước
chống Pháp vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, người Bình
Định không phải ai cũng biết là mộ phần của ông hiện nằm ở Bến Ngự
(thành phố Huế), ngay trong khuôn viên vườn nhà và mộ phần Phan Bội
Châu...Ngay trên đỉnh dốc Bến Ngự là khu vườn nhà và lăng mộ của Sào Nam
Phan Bội Châu. Nơi đây có mộ, ngôi nhà tranh và nhà thờ Phan Bội Châu
cùng bức tượng cụ Phan đúc bằng đồng. Nằm sát cổng chính của khu vườn,
là ngôi mộ nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ nằm yên bình, dưới những bóng
cây. Mộ xây gạch, có tường bao, nhuốm màu thời gian, bên trong là một
tấm bia bằng chữ Hán, ngoài có tấm biển nhỏ đề: Lăng mộ Tăng Bạt Hổ. Tăng
Bạt Hổ mất ở Huế thì ai cũng rõ, sách nào cũng viết, nhưng tại sao mộ
phần ông lại được táng ở trong khu vườn nhà và lăng mộ Phan Bội Châu?
Trong khi đó, tập san kỷ niệm 30 năm giải phóng Hoài Ân lại viết: "Mộ
phần ông (Tăng Bạt Hổ) hiện nay nằm ở Hương Trà". Hồi ký Tự phán của
Phan Bội Châu viết: "Mùa xuân năm Bính Ngọ (1906), ông (Tăng Bạt Hổ) tự
Bắc Kỳ chạy khắp khoảng Thanh, Nghệ, Tịnh, Bình, ngày nghỉ đêm đi sức
hao lòng mỏi. Mùa đông năm ấy, đến Kinh Huế... nào ngờ ông xanh xao quá,
việc chẳng như lòng, kịp đến nhà cụ Võ ở An Hòa
(Huế) bệnh phát nặng. Cụ Võ (Võ Bá Hạp, người đồng chí của Phan Bội
Châu) vì giữ tai mắt người ngoài, thuê một thuyền con đậu dưới bến,
khuya sớm phụng dưỡng ông, mới có vài tuần mà ông đã tạ thế trong
thuyền". Theo khảo sát của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, sau khi cụ
Tăng Bạt Hổ mất, cụ Cử Võ cùng các đồng chí đồng sự đã đem táng thi hài
cụ Tăng trên một gò cao thuộc ấp Thế Lại Thượng. Năm 1956, cụ Lê Ngọc
Nghị, một nhân sĩ đã cùng với một số hậu duệ các bậc tiền bối hợp tác
cùng thân hào xã Thế Lại Thượng tổ chức lễ truy điệu và cải táng hài cốt
Tăng Bạt Hổ lên chôn tại khu vườn nhà và lăng mộ Sào Nam Phan Bội Châu
như hiện nay. Cũng cần nói thêm về khu vườn này. Đây nguyên là nơi ở của
cụ Phan Bội Châu trong suốt 15 năm cụ bị giam lỏng ở Huế (từ 1925 đến
1940). Tiền mua đất và dựng nhà do đồng bào cả nước góp. Khi mất, cụ
Phan được cụ Huỳnh Thúc Kháng và các nhà yêu nước đương thời táng ngay
trong vườn nhà. Đồng thời, ngay bên cạnh ngôi nhà tranh của cụ, cụ Huỳnh
làm thêm một ngôi nhà nhỏ để thờ cụ Phan. Sau cuộc kháng chiến chống
Pháp, khu vườn, lăng mộ và nhà thờ bị tiêu điều. Những người còn tưởng
nhớ đến cụ Phan đã thành lập một ủy ban xây dựng nhà thờ cụ Phan do bác
sĩ Thân Trọng Phước đứng đầu. Tháng 10 năm 1956, công việc xây dựng hoàn
tất. Những người có trách nhiệm thời bấy giờ đã đưa tên tuổi các nhà
yêu nước khác trong phong trào chống Pháp khởi đầu từ Thủ khoa Huân,
Trương Định, cho đến các nhà yêu nước trong phong trào Cần Vương, văn
thân Đông Du, khởi nghĩa Thái Nguyên, Yên Bái… vào thờ chung với Phan
Bội Châu và nhà thờ cụ Phan trở thành Nhà thờ Việt Nam Liệt sĩ cách mạng
và Phan Bội Châu tiên sinh. Cụ Tăng Bạt Hổ, một chí sĩ của phong trào
Cần Vương và Đông Du, nên hài cốt cũng được đưa về táng ở đây. Người
Bình Định sau này hể ai có dịp ghé đất Thần Kinh, thường ghé và thắp
hương tưởng niệm chí sĩ Tăng Bạt Hổ và các anh hùng, nghĩa sĩ.
TĂNG BẠT HỔ- CÁNH TAY ĐẮT LỰC CỦA PHAN BỘI CHÂU TRONG PHONG TRÀO ĐÔNG DU
Cho đến nay chúng ta chưa có nhiều tư liệu cụ thể và chi tiết những hoạt động của Tăng Bạt Hổ trong quá trình “phục
thù báo quốc” từ khi “ vào lính’, “phấn dũng giết giặc ở chiến trường”
đến lúc tham gia “nghĩa hội cũ” ở hai tỉnh Bình- Phú bị thất bại, phải
thoát sang Tàu”, mang quốc thư đi Lữ Thuận, thông hiếu với Nga sứ”… đó
là giai đoạn đã được đề cập trong các bản tiểu sử sơ lược của ông, được
người đồng thời như Đặng Đoàn Bằng và Phan Bội Châu viết trong cuốn Việt
Nam Nghĩa Liệt Sử, xuất bản lần đầu tiên ở Trung Quốc năm 1918, hoặc
được bổ sung thêm vài chi tiết trong tự truyện của Sào Nam Phan Bội
Châu, tức là cuốn Phan Bội Châu Niên Biểu viết năm 1929. Qua hai tác
phẩm này, chúng ta biết Tăng Bạt Hổ có “bản tính hào mại, kiến thức thấu
suốt, khí phách cương nghị”. Ông tham gia các trận tránh quân Pháp xâm
lượt bên cạnh Lưu Vĩnh Phúc, tướng cờ đen do nhà Thanh phái sang Việt
Nam giúp triều đình Tự Đức. Ông chiến đấu rất anh dũng, lập nhiều công
trạng được bổ chức cao trong quân ngũ. Năm 1885, kinh đô Huế thất thủ,
vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương, ông hưởng ứng tham gia nghĩa quân
của Mai Xuân Thưởng, được phong chức Đề đốc, đã chiêu tập thêm nghĩa
dũng gây nên phong trào chống Pháp mạnh mẽ ở Bình Định- Phú Yên trong
những năm 1885-1887. Phong trào
khởi nghĩa bị đàn áp tan rã, ông thoát nạn liền chạy ra Bắc kỳ, tìm
đường sang nhà Thanh cầu viện, nhưng nhà Thanh lúc bấy giờ cũng đã suy
yếu, không đáp ứng được yêu cầu của ông. Ông lại mang quốc thư đi thông
hiếu với Nga. Về điểm này trong niên biểu của Phan Bội Châu chép là ông
đến Lữ Thuận gặp sứ thần Nga, nhưng qua tài liệu của nhà sử học Pháp
Georges Bouddarel, trong phần chú thích, bản dịch ra chữ Pháp cuốn Phan
Bội Châu Niên Biểu xuất bản ở Paris năm 1969 có đưa ra ý kiến như sau:
“
Có thể Tăng Bạt Hổ mang thư uỷ nhiệm của vua Hàm Nghi sang liên lạc với
bá tước Cassini, sứ thần Nga ở Bắc Kinh để cầu viện, nhưng bị từ chối
hai lần vào khoảng giữa tháng 12 năm 1892 và tháng 3, năm 1893. Phái bộ
này gồm có 3 người cho biết rằng họ được lệnh của nhà vua bí mật sang
Saint Pétersbourg để yêu cầu Nga hoàng giúp Việt Nam đánh đuổi Pháp. Nga
đã nhận “ Bảo hộ An Nam (trung
kỳ) trên danh nghĩa”, còn Pháp giữ Bắc kỳ và Nam kỳ. Theo toàn quyền De
Lannessan thì phái đoàn này là của Tôn Thất Thuyết, chứ không phải của
triều đình Huế”.
Phải
chăng do sự kiện “ngoại giao” này mà bấy lâu nay chúng ta vẫn đinh ninh
là Tăng Bạt Hổ “đi Nga”, “ chinh Nga có lúc hoàng quân” như ở bài Á tế á
ca đã nêu và trong câu đối khóc Tăng Bạt Hổ, ngư hải Đặng Thái Thân
cũng viết: “đã kêu ở Anh, đã kêu ở Thanh, còn to tiếng ở Đông…” . Như
vậy việc giao thiệp của ông với Nga coi như thất bại. Bấy giờ được tin
Lưu Vĩnh Phúc (người mà được ông quen biết từ trước, tức là trong những
năm ông tòng chinh ở Bắc kỳ (1873-1883) từng sống và chiến đấu bên cạnh
Lưu Toàn) hiện đang chỉ huy quân đội nhà Thanh ở Đài Loan, ông bèn tìm
tới để cầu cứu và được Lưu Vĩnh Phúc thu nạp vào hàng quân, phong cho
chức Dinh trưởng.
Nhưng
chẳng bao lâu sau, năm 1895, Lưu Vĩnh Phúc bị quân đội Nhật bản đánh
bại, Đài Loan bị Nhật Bản chiếm, nên Tăng Bạt Hổ phải chia tay với Lưu
Vĩnh Phúc, qua Xiêm lưu trú một thời gian để chờ dịp thuận lợi về nước
hoạt động. Đó là khoảng thời gian từ 1895 đến 1898. Theo
tác giả Việt Nam Nghĩa Liệt Sử cho biết, khi ở Xiêm, ông thường qua lại
các miền Băng Cốc, Xa Quân: “ lúc đó ông gặp các chiến sĩ Nghệ An như
Nguyễn Đức Hậu cùng bàn việc nước. Hai ông rất tương đắc nhau, mưu liên
lạc cùng Việt kiều tại Xiêm để mưu tính việc khôi phục đất nước. Nhưng
cơ hội chưa đến không thể làm gì được, ông chỉ trốn tránh qua thời mà
thôi”. Ông rời khỏi đất Xiêm năm 1898.
Giai
đoạn tiếp theo, từ 1893-1903, có thể coi là giai đoạn Tăng Bạt Hổ chuẩn
bị cho những hoạt động cứu nước của ông theo hướng mới: kết thúc “nghĩa
hội cũ” và mở ra “nghĩa hội mới”. Mùa xuân năm Mậu Tuất (1898), Tăng
Bạt Hổ từ nước ngoài trốn về nước, ông đã tìm gặp và kết thân với nhà
yêu nước Nguyễn Thượng Hiền lúc đó đang có mặt ở Hà thành. Hai người bàn
bạc với nhau việc “kết nạp những bậc anh hào có lòng yêu nước, thăm dò
con em các gia đình có thù với giặc, kể với nhau từng người, từng họ,
từng đỉnh, đều có thể giúp đỡ chúng ta, và con ông nọ ông kia thông
minh, dũng cảm có thể đồng mưu được, nên đem họ xuất dương. Đã đồng ý
với nhau rồi, nhưng tôi chia nhau tìm bạn, khắp người nọ đến người kia.
Nhưng vì các người đó kẻ Bắc người Nam,
tung tích không nhất định, nên không gặp được. Sư Triệu (tức Tăng Bạt
Hổ) lại từ biệt tôi đi ngoại quốc, qua chỗ này chỗ nọ nhiều nơi. Sau
cuộc chiến tranh Nga- Nhật nỗ ra (2-1904), thế lực Á Đông nỗi lên mạnh,
Sư Triệu về nước lại đến thăm tôi, bàn về kế hoạch tiến hành”. Qua đoạn
hồi ức này của Nguyễn Thượng Hiền đã cho chúng ta một số chỉ dẫn quan
trọng về “hành trang về chủ
trương cứu nước” của Tăng Bạt Hổ lúc bấy giờ. Đó là sau khi ở Xiêm về
nước, ông đã dự định một kế sách “tập hợp lực lượng yêu nước vào trong
một tổ chức cứu nước mới” và đã thống nhất ý kiến với Nguyễn Thượng Hiền
cả về việc chọn người “xuất dương cầu học”, rồi chính lại tự chọn mình
làm người “đi ngoại quốc”, (tức là đi Trung Quốc). “ qua chỗ này chỗ nọ
nhiều nơi” (chắc chắn là từ biên giới Việt –Trung qua Lưỡng Quảng, Hồng
kông, Thượng Hải.. để liên hệ nhân mối, tìm địa điểm dừng chân như là
một người đi tiền trạm cho đoàn người xuất dương sau này vậy. Thật không
hẹn mà gặp, chủ trương liên kết những người đồng tâm đồng chí chọn
người xuất dương cầu học, bồi dưỡng nhân tài làm rường cột cho đất nước
của Nguyễn Thượng Hiền và Tăng Bạt Hổ cũng chính là nội dung quan trọng
trong tôn chỉ, mục đích đường lối hoạt động của Duy Tân Hội do Phan Bội
Châu, Đặng Thái Thân, Nguyễn Thành và các đồng chí của họ đang trong quá
trình hình thành, vận động và sẽ chính thức thành lập vào tháng năm
1904 tại Quảng Nam. Duy Tân Hội là một hội đảng kiểu mới sẽ góp phần
lãnh đạo phong trào đấu tranh dân tộc ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX theo
“ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản”, mà các nhà nho yêu nước tiến bộ thời
bấy giờ gọi là “mở ra nghĩa hội mới”.
Trong
ba nhiệm vụ quan trọng của Duy Tân hội gồm: 1- Phát triển thế lực của
hội về người và tài chính; 2- Xúc tiến việc chuẩn bị bạo động và các
công việc sau khi phát lệnh bao động; 3- Chuẩn bị xuất dương cầu viện,
xúc định phương châm và thủ đoạn xuất dương, thì nhiệm vụ thứ 3- xuất
dương cầu viện được xem là quan trọng nhất và giao cho Phan Bội Châu
cùng Tiểu La Nguyễn Thành trù liệu. Việc này hoàn toàn không phải là
biểu hiện của tâm lý vọng ngoại mù quáng mà cốt gây thanh thế cho lực
lượng bên trong. Hướng cầu viện được xuất viện là Nhật Bản, vì theo lời
của Tiểu La Nguyễn Thành , “trông vào thế lực liệt cường hiện nay, nếu
không phải là nước đồng văn đồng chủng với mình, tất không có nước nào
viện trợ cho mình. Trung Quốc đã chịu nhường nước ta cho Pháp; vả lại
Trung Quốc bây giờ thế lực suy yếu, tự cứu mình còn không xong, chỉ có
Nhật là giống da vàng và lại là nước tiên tiến. Từ ngày thắng Nga lại
sinh dã tâm; bây giờ ta sang Nhật, đem lợi hại thuyết phục họ, tất nhiên
họ vui lòng viện trợ ta. Nếu họ không viện trợ bằng binh lính, thì việc
mua khí giới, nhờ lương thực cũng có phần dễ”.
Từ
nhiệm vụ “xuất dương cầu viện” này đã nẩy ra một số vấn đề hết sức quan
trọng phải bàn đến và phải lo tính các biện pháp thực hiện, đó là kinh
phí và nhân tài ngoại giao với người hướng đạo. Về nguồn kinh phí trong
nước, Hội giao cho Tiểu La Nguyễn Thành đảm trách, còn “người dẫn đường”
và “công việc ngoại giao” là do Sào Nam Phan Bội Châu đảm đương. Tuy
nhiên Phan Bội Châu nhận thấy rằng Phan chỉ có thể ở cương vị đối ngoại
với các chính khách, văn nhân khi tiếp xúc với họ ở Trung Quốc, Nhật Bản
mà thôi, vì Phan giỏi chữ Hán, có học vấn, có ít nhiều hiểu biết về các
tư trào, về thời cuộc trên thế giới do tân thư, tân văn mách bảo, còn
vấn đề “người dẫn đường” cho công cuộc Đông du cầu viện là khó khăn nhất. Ngay
lúc đó Tiểu La Nguyễn Thành đã kịp chỉ vai trò của Tăng Bạt Hổ. Ông
nói: “việc kinh phí, chỉ một mình tôi với Sơn Tẩu (Đỗ Đăng Tuyển) biện
được xong.. Anh Tăng Bạt Hổ từ ngày cần vương thất bại, từng chạy khắp
Quảng Đông, Quảng Tây lại có mang cả quốc thư đi Lữ Thuận thông hiếu với
Nga sứ. Việc đó bất thành anh chuyển qua Đài Loan dựa vào Lưu Vĩnh
Phúc. Khi Nhật Bản lấy Đài Loan, Lưu Vĩnh Phúc thua chạy, Tăng quay sang
Xiêm mượn đường về nước, hiện nay nép giấu ở Hà thành, nhưng mà tấm
lòng phục thù càng kiêu lắm. Tôi từng viết thư kêu anh về Nam, chẳng may thời mai, Tăng quân chắc về đây. Lấy cái gánh “người đưa đường” trao cho anh Tăng không phải lo không có xe chỉ Nam vậy”.
Và
thế là tháng 7, năm 1904, Tăng Bạt Hổ từ Bắc trở về. Phan Bội Châu được
gặp ngay ông tại nhà Tiểu La Nguyễn Thành. Đây là cuộc hội ngộ kỳ thú,
có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong cuộc đời hoạt động của những nhà trí
sĩ hồi đầu thế kỷ XX. Phan Bội Châu đã đánh giá Tăng Bạt Hổ chính là
“người kéo múi dắt dây” cho phong trào Đông Du, một hoạt động nỗi bật
nhất của Duy Tân Hội lúc đó. Tiểu La Nguyễn Thành đã thay mặt Hội thuật
lại cho Tăng Bạt Hổ nghe những “mưu đồ” của hội. Tăng Bạt Hổ nghe và
tiếp lời Tiểu La Nguyễn Thành:
- Ta nay làm việc lớn, nếu không có ngoại viện mà chỉ trông vào nội đảng, nếu tiếp tế không đủ thì sao?
Tiểu La Nguyễn Thành nói ngay:
- Tôi cũng lo như thế, nhưng biết ai làm Thân Bao tư bây giờ?
Tăng Bạt Hổ liền đáp:
-
Tôi không có sở trường gì khác nhưng đã lâu năm tôi từng đi qua các nơi
Việt, Quế, sang Đài Loan, đến Đông Nam tỉnh, rồi từ Thiên Tân, Thanh
đảo trở về Thượng Hải, laị đi Nam dương lấy sóng gió làm gối, sương
tuyết làm cơm, điều đó là sở trường của tôi. Hiện nay Nhật Bản nổi dậy,
châu Á đã thay bộ mặt, ta có thể đi xem thế nào. Nếu các ông dùng tôi,
xin các ông cứ sai phái, tôi sẽ vui lòng.
Về
cuộc gặp gỡ quan trọng này, Phan Bội Châu đã ghi lại trong Niên Biểu
như sau: “ông tuổi ngoài 40, mày râu cốt cách trời hạ sương thu, trông
qua một lần mà biết chắc là người đã lịch duyệt dày lắm. Ngồi nói chuyện
kể tình hình ngoài biển rất kỹ, mà nói nhân vật nước Tàu lúc bấy giờ
cũng rành rọt như đém tiền trong túi vậy. Tôi được gặp ông, mừng bằng
trời trao, rồi bàn đến đi Nhật Bản, ông hăng hái đi ngay”.
Từ
đó Phan Bội Châu yên tâm “quyết kế định ngày đi Nhật Bản” để tổ chức
lãnh đạo phong trào Đông Du. Cũng từ đây, Tăng Bạt Hổ trở thành một yếu
nhân của Duy Tân Hội.
Cuối
1904, sau khi chuẩn bị xong hành trang “xuất ngoại” đầu tiên của Duy
Tân Hội tiến hành cuộc “vượt biển bí mật”. Đoàn gồm có ba người: Phan
Bội Châu, Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính. Đặng Tử Kính là chú ruột của ngư
hải Đặng Thái Thân: “tuổi ngoài bốn mươi, truớc đã nhiều năm bôn tẩu cho
đảng Cần vương, mà với đảng cách mạng mới gần đây (tức Duy Tân Hội)
cũng xuất lực rất nhiều”. Sở dĩ có thêm Đặng Tử Kính cùng đi với đoàn là
do ý kiến đề nghị đúng đắn của Tăng Bạt Hổ với Phan Bội Châu.
Ngày
23-2-1905, Đoàn rời bến tàu Hải Phòng, ngược lên Quảng Ninh Móng Cái…
qua Đông Hưng (Trung Quốc) theo đúng nhật trình của người dẫn đường là
Tăng Bạt Hổ. Tăng Bạt Hổ rất thông thuộc đường đi lối lại ở vùng này,
thậm chí ông đã có trước những trạm liên lạc, những cơ sở nhà dân để
dừng chân. Sau hai ngày đi đường, đoàn đã đến Liêm Châu, rồi Bắc Hải,
rồi lại được gặp một người bồi tàu yêu nước tên là Lý Tuệ, về sau Lý Tuệ
trở thành người giao liên rất đắc lực của Duy Tân Hội. Đoàn nghỉ lại ở
đây một tuần lễ, còn Tăng Bạt Hổ đi qua Thiều Châu (Quảng Đông) thăm các
cụ Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, nơi nhà cầm quyền Trung Quốc yêu
cầu Toàn quyền Đông Dương để cho các cụ lưu trú ở đó, nhằm chắp nối một
đường dây liên lạc của các nhà yêu nước Việt Nam với nhau, và về sau
chính những người tham gia phong trào Đông Du cũng thường qua lại đó đưa
đón nhau.
Trong
thời gian lưu lại Hương Cảng, Tăng Bạt Hổ còn giúp cho Phan Bội Châu
tiếp xúc với các đảng viên cách mạng Trung Quốc tại cơ quan Thương báo
của Đảng Bảo Hoàng (gặp ông Từ Cần, Chủ nhiệm Thương Báo) và Trung Quốc
nhật báo của đảng cách mạng (gặp ông Phùng Tự Do, chủ nhiệm Trung Quốc
nhật báo). Phùng Tự Do đã gợi ý cho Phan Bội Châu viết thư cho Tổng đốc
Lưỡng Việt là Sầm Xuân Huyên, nhờ giúp đỡ cách mạng Việt Nam.
Đó là bức thư ngoại giao đầu tiên của Phan Bội Châu do chính Tăng Bạt
Hổ tìm đến thư ký của Sầm Xuân Huyên là Chu Xuân để giao tận tay. Nhưng
Phan Bội Châu không được hồi âm, đến nỗi Phan có một nhận xét chua chát:
“triều đình chuyên chế thiệt không có người tốt. Mãn Thanh với triều
Nguyễn ở ta chẳng qua là ma chôn chung huyệt mà thôi”
Sau
một thời gian lưu lại ở Hương Cảng, đoàn đến Thượng Hải, nhưng chưa thể
đi ngay sang Nhật Bản được, vì cuộc chiến tranh Nga -Nhật đang ở giai
đoạn quyết liệt, tàu buôn của Nhật Bản bị trưng dụng cho quân đội, còn
tàu buôn của các nước khác cũng chưa đến Nhật Bản được do trở ngại vì
chiến sự. Mãi tới cuối tháng 5-1905 đoàn xuất dương của Phan Bội Châu
mới cập bến cảng Kobé, rồi đến Yokahama, nơi mà Phan Bội Châu cần đến để
tìm gặp nhà chính khách Trung Quốc Lương Khải Siêu, người mà Phan từng
hâm mộ và muốn vấn kế cho công cuộc cứu nước của mình.
Phan
Bội Châu tự viết thư giới thiệu Phan với Lương Khải Siêu và xin được
tiếp kiến. Lương Khải Siêu rất cảm động đón tiếp các nhà yêu nước Việt Nam
“xuất dương cầu viện” này. Trong các cuộc tiếp xúc giữa hai người, Tăng
Bạt Hỗ đóng vai trò người thông dịch trực tiếp qua những câu thù ứng
thông thường của hai bên, vì ông biết tiếng Quảng Đông. Còn những lời
tâm sự hoặc bàn về “đường lối, sách lược” cứu nước giữa Phan Bội Châu và
Lương Khải Siêu thì bằng bút đàm.
Cuối
tháng 7-1905, Phan Bội Châu sau khi thăm thú tình hình ở Nhật Bản, đã
bước đầu đặt được cơ sở cho phong trào Đông Du cầu học và đã biên soạn
xong cuốn Việt Nam Vong Quốc sử, được Lương Khải Siêu in giúp làm tài
liệu tuyên truyền cách mạng. Sau đó Phan Bội Châu lại cùng với Đặng Tử
Kính tìm đường về nước để mang Ngoại hầu Cường Để xuất dương, và lựa
chọn một số thanh niên ưu tú đi học ở Nhật. Còn Tăng Bạt Hổ lưu lại ở
Yokahama chuẩn bị “cơ sở vật chất” để kịp thời đón một thanh niên từ Việt Nam sang Nhật du học.
Cuối
tháng 8-1905, Phan Bội Châu trở sang Nhật Bản mang theo ba thanh niên
du học đầu tiên là Nguyễn Thức Canh, Nguyễn Điển và Lê Khiết. Lại được
Lương Khải Siêu góp ý, Phan Bội Châu đã viết ngay một bản Khuyến quốc
dân tư trợ du học gửi về nước để vận động đồng bào trong nước giúp đỡ
các thanh niên đi du học. Vừa lúc đó lại có thêm 6 thanh niên Việt Nam
yêu nước “vượt biển” sang Nhật Bản và đều ở lại nhà đón tiếp do Tăng Bạt
Hổ sắp xếp ở Yokahama. Việc cung cấp lương thực thực phẩm cho chín anh
em này trở nên căng thẳng. Tăng Bạt Hổ lại một phen phát huy tài tổ chức
của công, ông bàn với Phan Bội Châu đến một nhà buôn người Quảng Đông ở
đây để mua chịu gạo và củi. Còn ông xuống tàu thuỷ làm công kiếm tiền
nuôi anh em. Sau đó ông quay về Quảng Đông vay tạm Lưu Vĩnh Phúc một món
tiền để gửi gấp qua Nhật cho Phan Bội Châu. Ông phải qua lại vài ba lần
để tiếp tế cho anh em ở Yokahama lúc này đang chuẩn bị học Nhật ngữ,
chờ ngày Phan Bội Châu thu xếp cho họ vào học ở các trường văn hoá và
chuyên môn ở Tôkiô… Mùa đông năm đó (1905), chờ mãi kinh phí ở nước nhà
mà chưa thấy gửi sang Nhật Bản, cuối cùng Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính
phải rời Yokahama, mang theo hàng ngàn tờ Khuyến quốc dân tư trợ du học
văn về nước để vận động kinh tài ở hai miền Bắc kỳ và Trung kỳ. Về nước
Tăng Bạt Hổ lại khẩn trương liên hệ với các cơ sở cách mạng để thông báo
tình hình của anh em du học sinh Việt Nam đang ở Nhật Bản, đồng thời
tuyên truyền, vận động quyên góp kinh phí cho phong trào Đông Du. Ông
hoạt động tích cực ở các tỉnh miền Bắc, lo thu xếp cho kỳ Ngoại hầu
Cường Để xuất dương trót lọt, thường xuyên liên lạc với Nguyễn Thượng
Hiền ở Nam Định, khuyếch trương ảnh hưởng của Duy Tân Hội, cùng với
Nguyễn Trượng Hiền tổ chức, tuyển chọn các thanh niên tuấn tú qua Nhật
Bản học.
Giữa
năm 1906, thời gian này tiết trời nóng nực, do đi lại nhiều vất vả khó
nhọc, Tăng Bạt Hổ bị mắt bệnh kiết lị. Bệnh ngày một nặng, ông viết thư
cho Nguyễn Thượng Hiền đề nghị gửi quế thanh cho ông chữa bệnh, nhưng
Tăng Bạt Hỗ cũng không qua khỏi và đã trút hơi thở cuối cùng trong một
con thuyền trên sông Hương do người đồng chí của ông là Võ Bá Hạp thuê
để ông tiện trốn tránh bọn mật thám Pháp và tiện chữa bệnh.
Như
vậy giữa lúc phong trào Đông Du đang diễn ra sôi nỗi thì Tăng Bạt Hổ đã
đột ngột qua đời, đây được xem là một tổn thất rất nặng nề của phong
trào Đông Du. Tin Tăng Bạt Hổ qua đời mãi đến năm 1907 Phan Bội Châu mới
biết. Phan Bội Châu cho đó là cái tang đau đời nhất trong cuộc đời sau
khi xuất dương của ông. Trong cuốn Niên biểu, Phan Bội Châu đã ghi lại
những dòng trân trọng khi viết về Tăng Bạt Hổ: “ông về nước mới hơn một
năm, vận động thiệt rất có công hiệu. Khoảng năm ngọ (1906-1907), chúng
tôi ở ngoài, tất cả lữ phí, học phí và các chi phí hoạt động khác thảy
đều duy trì được, thực nhờ công đức của nghĩa nhân, chí sĩ Trung, Bắc
hai kỳ, mà người kéo mũi dắt dây ở trung gian thiệt nhờ ông lắm”. Câu
này cũng có thể coi là sự đánh giá chung cho sự đóng góp to lớn và quan
trọng của Tăng Bạt Hổ đối với phong trào Đông Du ở những năm đầu đầy khó
khăn, gian khổ.